Theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, cuộc tổng tiến công nổi
dậy mùa xuân 1975 diễn ra sớm hơn cả ý định ban đầu của ta tới gần 2 năm.
- Theo Bộ tr?
?ởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, cuộc tổng tiến công nổi
dậy mùa xuân 1975 diễn ra sớm hơn cả ý định ban đầu của ta tới gần 2 năm.
>> Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam không phô trương, lãng phí
Trong tham luận của hội thảo "Đại thắng mùa xuân 1975 - sức mạnh của ý chí thống nhất Tổ
quốc và khát vọng hòa bình" ở TP.HCM hôm nay, Bộ tr?
?ởng Quốc phòng viết: "Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 diễn ra trong
55 ngày đêm,
với tốc độ thần kỳ "một ngày bằng 20 năm". Với trận quyết chiến
chiến lược này, ta đã đánh bại quân địch
với 1 triệu tên, do Mỹ dày công tổ chức,
được huấn luyện và trang bị
với số lượng lớn phương tiện, vũ khí hiện đại và hệ
thống phòng thủ, bố trí chiến lược hoàn chỉnh (mạnh hai đầu) ở miền Nam".
Đại biểu dự hội thảo. Ảnh: QĐND
Giành thắng lợi trong thời gian rất ngắn, ít tổn thất, Đại
tướng Phùng Quang Thanh cho hay, nó thậm chí diễn ra sớm hơn cả ý định ban đầu
của ta tới gần 2 năm.
Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Thứ tr?
?ởng Bộ Quốc phòng thì
nhớ lại cuối năm 1973 và cả năm 1974, cùng việc gấp rút củng cố và phát triển lực
lượng tại chỗ trên chiến trường, Đảng chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường chi viện của
hậu phương miền Bắc.
Lúc đó, mức tuyển quân và huy động của cải vật chất ở miền
Bắc tăng nhiều lần so
với các thời kỳ trước. Đến cuối năm 1974, trên cơ sở chuẩn
bị mọi mặt, Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên sức mạnh của quân dân cả nước
hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976.
Thượng tướng, Thứ tr?
?ởng Quốc phòng Nguyễn Thành Cung
tại hội thảo. Ảnh: QĐND
Sau chiến thắng Phước Long (1/1975), thế và lực của ta tăng
lên, khả năng Mỹ đưa quân trở lại khó xảy ra, Bộ Chính trị đi đến quyết định mở
cuộc tiến công chiến lược để hoàn thành giải phóng miền Nam ngay trong 1975.
Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên được coi là đòn "điểm trúng huyệt" đã nhanh
chóng làm thay đổi cục diện chiến trường,
mở ra thời cơ giải phóng hoàn toàn
miền Nam trong thời gian ngắn nhất.
Nghiên cứu công phu
Chia sẻ ở góc độ th
am mưu, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham
mưu tr?
?ởng QĐND VN, Thứ tr?
?ởng Bộ Quốc phòng cho hay, từ giữa năm
1973, khi hội nghị lần thứ 21 của BCH TƯ Đảng đang diễn ra, Bộ tổng
th
am mưu đã tập trung nỗ lực chuẩn bị kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn
miền Nam.
Sau khi có nghị quyết hội nghị TƯ 21, Bộ tổng th
am mưu tiếp
tục chỉ đạo bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch.
Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: QĐND
"Kế hoạch được nghiên cứu rất công phu, có sự tham gia của
nhiều cán bộ chủ chốt lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường và được bổ sung nhiều
lần trước khi trình lên Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị.
Một trong những vấn
đề lớn, khó khăn nhất là phải tìm hiểu khả năng can thiệp trở lại
của đế quốc Mỹ và sự can thiệp của các nước trong khu vực khi ta
mở cuộc tiến
công lớn... đã chỉ đạo các chiến trường thực hiện một số chiến dịch để tìm hiểu
phản ứng của Mỹ và sức mạnh của quân đội Sài Gòn, như chiến dịch Nông Sơn -
Thượng Đức (17/7 - 25/8/1974), La Sơn - Mỏ Tàu (28/8 - 28/9/1974), đường 14 -
Phước Long (17/12/1974 - 6/1/1975)..." - Thượng tướng cho hay.
Thượng tướng Ngô Xuân Lịch cho rằng, một chìa khóa vàng
mở ra
đại thắng, đó là sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân chiếm ưu thế
tuyệt đối trong suốt cuộc kháng chiến, được phát huy cao độ,
trở thành sức mạnh áp đảo kẻ thù.
Tướng Lịch cho hay sức mạnh của quân và dân trong đại thắng
mùa xuân 1975 đã được những người bên kia chiến tuyến thừa nhận, dù muộn và chưa đầy đủ. Ông dẫn lại nhận xét của giám đốc cơ quan
nghiên cứu kế hoạch chiến tranh không quân của Mỹ rằng "trong khi các nhà lãnh
đạo nước Mỹ càng ngày càng đặt nhiều hy vọng và kỹ thuật để khuất phục Đông
Dương thì các lực lượng kháng chiến lại tìm thấy sức mạnh chủ yếu ở chỗ
khác: trong tiềm lực văn hóa và tinh thân của nhân dân họ".
Vừa đánh vừa đàm
Thứ tr?
?ởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc chia sẻ hậu trường đàm phán
ngoại giao hiệp định Paris. Để có được ngày ký kết hiệp định lịch sử vào
27/1/1973, Mỹ thực sự "không vừa" và ngoại giao Việt Nam đã phải kiên trì
với Mỹ trong suốt 4 năm, 8 tháng, 16 ngày, khi cùng lúc phải kết hợp cả mặt trận
quân sự theo phương châm "vừa đánh vừa đàm".
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc lập ngày
30/4/1975. Ảnh tư liệu
Theo Thứ tr?
?ởng Kim Ngọc, trước tình hình ngày càng bất lợi,
Mỹ buộc phải đồng ý thảo luận cụ thể từng câu chữ, điều khoản theo bản dự thảo
hiệp định được phái đoàn VNDCCH đưa ngày 8/10/1972. Đến 20/10/1972, Tổng thống
Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định văn hoàn hoàn thành và sẽ
ký vào 31/10/1972. Nhưng ngay sau đó, sau khi tái đắc cử, Nixon lại đòi "bàn
thêm", sửa hầu hết các vấn đề thực chất trong tất cả các chương của hiệp định
theo đòi hỏi của chính quyền Sài Gòn.
Như lời ông Ngọc bình luận, hành động này là cách "cố tình
trì hoãn" việc ký hiệp định. Căng thẳng, bế tắc kéo dài suốt tháng 11 tới đầu
tháng 12/1972. Rồi để gây sức ép cục diện đàm phán, Nixon bắt đầu cho máy bay
B52 rải thảm Hà Nội.
Chỉ đến khi 12 ngày đêm chiến đấu chống pháo đài bay B52
của Hà Nội kết thúc
với kỳ tích "Điện Biên Phủ trên không", làm sụp đổ thần
tượng bất khả chiến bại của không lực Hoa Kỳ, Nixon mới phải thốt lên rằng: Nỗi
lo sợ của chính quyền Mỹ trong những ngày này không phải do làn sóng phản đối
nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới mà là mức độ tổn thất quá nặng nề về
máy bay B52.
Thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, tổn thất nặng
nề trong chiên dịch ném bom bắn phá miền Bắc và bị dư luận quốc tế lên án mạnh,
ngày 29/12/1972, Nixon buộc phải ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán
trước khi các bên ký chính thức bản hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Xuân Linh
Trang web trò chơi Caishen Shengli APP Nguồn bài viết : Las Vegas trực tuyến